Huế là đế kinh sau cuối của cách thức quân chủ vietnam (1802-1945) nên còn bảo lưu diện mạo đế đô vẹn nguyên nhất.
Chỉ ở Huế mới còn giữ giàng, bảo tàng được các hình thái văn hóa phi vật thể cung đình rất dị, trong đó có lễ hội. Tết Nguyên đán được xem là lễ quan trọng nhất để trợ thì nghỉ việc nước và ăn uống tiết xuân ấm áp, nhằm hy vọng sự thịnh vượng của đất nước, dòng tộc...
Những lễ hội chính trong Tết cung đình
Tấn sĩ Phan Thanh Hải, Giám đốc Trọng điểm bảo tồn di tích Cố đô (TTBTDTCĐ) Huế kiếm được xét: “Trong cung đình có những đặc biệt riêng do các lễ chính được luật pháp ngặt nghèo, được xem là lệ luật. Vì thế, phần lễ là chính, phần hội đôi khi mờ nhạt. Vào thời Nguyễn, các hoạt động lễ trước và sau Tết Nguyên đán được đơn vị rất trọng thể và chu đáo”.
Đầu tiên là Lễ Ban sóc (lễ ban lịch năm mới) vào ngày 1-12 âm lịch tại điện Thái Hòa (từ năm 1840 thì doanh nghiệp tại Ngọ Môn). Tổ chức Khâm Thiên Giám đặt triều nghi và dâng lịch năm mới. Sau đó, vua ban lịch cho các quan, các quan làm cho lễ tạ ơn rồi đơn vị các quan quận lĩnh lịch để phát cho thần dân.
|
Đoàn của vua Bảo Đại trong một lễ thức ngày Tết. |
Tiếp tới là Lễ Tiến xuân - Nghênh xuân. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng trong dịp Tết ở cung đình, công ty tham gia tiết lập xuân (đầu 04 tuần 2 dương lịch) tại điện Cần Chánh đến quảng trường Ngọ Môn. Khoảng ngày 21, 22/12 âm lịch, Khâm Thiên giám và Võ khố lấy nước và đất ở phố Tuế Đức, sử dụng gỗ khiến cốt làm ra 3 con trâu đất và 3 vị mang thần (thần chăn trâu với hình tượng là đứa nhỏ dại đứng cạnh con trâu). Thân trâu cao 4 thước (thước phong thủy tính mỗi thước 28 cm) biểu trưng 4 mùa; dài 8 thước tượng trưng 8 tiết, đuôi dài 1 thước 2 tấc tượng trưng 12 tháng. Mang thần cao 3 thước, 6 tấc, 5 phân biểu trưng 365 ngày...
Phủ Thừa Thiên cho đặt bè bạn tế, các quan binh rước trâu đất và mang thần đến bè đảng tế khiến cho lễ Nghênh xuân. Sớm ngày lập xuân, các đại thần mặc triều phục rước trâu đất và mang thần đi qua các cửa chính và Nội giám thu nhận tiến vua, sau đó quan phủ Thừa Thiên tiến công trâu đất 3 roi tỏ ý khuyên việc cày cấy, tạo động lực nông nghiệp. Từ đó về sau, hàng năm làm lễ Tiến xuân ngừng, cứ bưng trâu đất và mang thần lần trước ra giao Võ khố nhận lưu trữ.
Lễ Phất thức (lễ thu vén) vào ngày 20 04 tuần Chạp. Triều đình cho chuẩn bị 6 tủ gỗ chứa các ấn vàng, ấn ngọc. Khi vua ra ngự giá, các cửa tủ đều tạo dựng, sử dụng khăn thấm nước lấy trong khoảng sông Hương lau các ấn rồi cho tham gia tủ khóa lại, niêm 2 chữ “Hoàng phòng”. Sau lễ này, vua và các quan mất việc, không sử dụng ấn nữa, cho đến đầu năm mới sau khi làm lễ Khai ấn, các công việc mới tiếp diễn trở lại. Trong khoảng 25 04 tuần Chạp tới 11 04 tuần Giêng là thời điểm vui Tết, triều đình ngưng giải quyết các công tác.
Lễ Cáp hưởng là lễ tế cuối năm tại các miếu để mời các bậc tiên đế về ăn Tết, đơn vị ngày 30 04 tuần Chạp. Vua ngự ra Thế Miếu hoặc Thái Miếu làm cho chủ tế lễ. Các thân công (họ hàng của vua được phong tước công), hoàng tử, đại thần đi cúng tế ở các lăng mộ, đền miếu, chùa quán ở kinh đô. Lễ Thướng tiêu (lễ dựng cây nêu) tổ chức vào 30 bốn tuần Chạp. Vua ngự ra điện Thái Hòa, các thân công, hoàng tử, các đại thần dựng nêu ở các lăng mộ, đền miếu, chùa quán ở kinh thành sau đó thần dân mới dựng cây nêu tại nhà.
Trong và sau Tết cũng có phổ thông lễ rất cần thiết. Lễ mừng nhà vua như một lễ đại triều. Sáng mùng 1, hồ hết thân công và văn võ bách quan đều mặc lễ phục. Thân công đứng nhì hàng bên trong điện Thái Hòa, quan văn võ đứng hai hàng trên tầng sân rồng thứ nhất theo phẩm sơn (tả văn, hữu võ); các cố lão đứng ở tầng sân dưới và bên ngoài là binh lính, voi ngựa. Biểu mừng Tết dành cho vua thường có nội dung: “Gặp Tết Nguyên đán, Tam dương tươi sáng; muôn vật sinh sôi. Tổ quốc một cảnh tượng êm đềm, tiên bàn dâng Thụy; Cung khuyết ba sắc mây đầm ấm, giáp lịch mở màn. Chúng thần thật tâm hí hửng, cung kính dâng biểu chúc mừng”. Sau đó các hoàng đệ, hoàng tử, công chúa tới mừng vua 5 lạy.
|
Tranh vẽ đại lễ ngày mùng 1 Tết ở Thế Miếu – Đại nội Huế năm 1923. |
Lễ nghi mừng Thái hậu được chấp hành long trọng do các vua Nguyễn đề cao chữ hiếu, được doanh nghiệp tại cung Trường Thọ (nay là cung Diên Thọ) – nơi Thái hậu ở, sinh hoạt. Lễ mừng Hoàng thái phi diễn ra tại điện Khôn Đức. Lễ mừng Thái tử diễn ra ở điện Thanh Hòa. Tới ngày mùng 2, vua quan bái lạy tại điện Phụng Tiên (nơi thờ các vua Nguyễn); ngày mùng 3 đi thăm thầy dạy; ngày mồng 5 đi du xuân, thăm viếng lăng mộ, chùa đền bên ngoài Đế kinh; ngày mồng 7 khiến lễ Khai hạ (hạ nêu), các quan giữ ấn làm lễ Khai ấn, thành lập cỗ áo ấn, Biểu tượng mở màn công việc trong năm mới.
Dường như còn đa dạng lễ khác như Lễ tế cờ, có bắn 3 tiếng súng thần công với ý nghĩa xua đuổi tà ma ác độc quỷ. Lễ tế hưởng ở các miếu được thi hành long trọng khi vua làm cho chủ lễ tế ở Thái Miếu hoặc Thế Miếu; các công thần tế lễ ở các miếu còn lại.
Rất dị tiệc tùng cung đình
Sáng mùng 1, sau khi khiến cho Lễ mừng nhà vua kết thúc thì vua truyền chỉ ban tiền thưởng xuân và yến tiệc. Các hoàng thân hoàng tử mỗi người được 20 lạng bạc, quan văn võ chánh nhất phẩm 12 lạng bạc, tòng nhất phẩm 10 lạng, chánh nhì phẩm 8 lạng.
Yến tiệc Tết mang dấu ấn rực rỡ văn hóa cung đình triều Nguyễn, thường đơn vị ở điện Cần Chánh và Tả Vu, Hữu Vu. Các quan phủ doãn, quan thức giấc dự tiệc yến ở nhị bên, trước điện Thái Hòa. Mỗi cuộc yến tiệc có phổ quát sơn hào hải vị: yến sào, nem công, chả phụng, môi đười ươi, thịt chân voi... Sau đó, mỗi người được biếu một gói tiến thưởng mang về cho con cháu.
Nguyên nguyên liệu ẩm thực được cung ứng trong khoảng 3 nguồn trong cả nước. Món ăn gồm phổ quát loại từ thủy hải sản (yến sào, vây cá, bào ngư, hải sâm, cá khoai, tôm, cua…), cầm thú (gân hươu, thịt gà, dê, lợn, ngựa…), lương thực, chè, hoa quả, các loại thức uống, mứt...
Những món ngự thiện như nem công được xem như thần hộ mạng của các bậc đế vương bởi có chức năng giải độc tố. Món chả phượng không chiên mà chỉ gói vào lá chuối thật kì quái rồi đem hấp chín. Bàn tiệc chẳng thể thiếu món gân nai, chè yến, chè hạt sen, môi đười ươi, bàn tay gấu, đệm chân voi…
Khác lạ phải kể tới lực lượng món ăn cao cấp, quý hiếm là bát trân gồm yến sào, hải sâm, bào ngư, hào xi, lộc cân, cửu khổng, tê so bì, hùng chưởng.
|
Hoạt cảnh tái hiện vua dự cỗ bàn hoàng cung.
|
Theo bà Tôn Nữ Thị Hà (76 tuổi, trú TP Huế, hậu duệ của vua Minh Mạng) là truyền nhân ẩm thực cung đình triều Nguyễn, thì ở cung vua là một không gian oai nghi, cao siêu và tại điện thiết tiệc là choáng ngợp trước sự xa hoa, lộng lẫy của những đồ vật dát quà và những món ăn đặc biệt cầu kỳ. Tiệc tùng nhiều chủng loại và phong lưu, tập phù hợp các món ăn quý tộc cùng với các món ăn bình dân. Bộ phận công ty ẩm thực vâng lệnh chặt chẽ các pháp luật, chuẩn tắc được chi tiết hóa trong các văn bạn dạng. Phong cách cỗ bàn của mỗi vị vua cũng vô cùng cá biệt, phong cách.
Các nghệ nhân ẩm thực phải bảo đảm nghệ thuật sắp xếp rất cầu kỳ, kết hợp với kỹ thuật đun nấu tài giỏi để luôn làm cho ưng ý những vị vua kỹ tính nhất. Các món trưng bày đẹp mắt, tinh khiết và thơm ngon. Bàn tiệc toàn diện sắc màu và dư vị, đan xen hòa quyện. Công ty lo việc thưởng thức của vua được lập từ thời vua Gia Long (1802) là Thuyền nội trù.
Tới thời vua Minh Mạng, đổi tên thành đội Thượng Thiện gồm 50 người (1820), mỗi người đảm đương một món, tùy theo sở trưởng. Ngoài ra, còn có ty Lý Thiện chuyên khiến cho yến tiệc mỹ vị, ty Tả chuyên khiến cho giải khát, đồ nước; ty Hữu chuyên việc quầy bánh, dâng tiến. Bấy nhiêu sự kỳ công, cốt để tạo nên vẻ tinh tấn trong ngọc thực dâng cỗ bàn cung đình.
Trên bàn tiệc có huỳnh tửu cùng hơn 30 món ăn khác nhau được kính cẩn dọn lên, thơm phức và đẹp cầu kỳ, mang đủ hình ảnh long, lân, quy, phượng để dâng lên vua và các vị quan khách. Với 50 bát và 16 dĩa, mỗi món chỉ cần gắp 1 miếng là quan khách đã đủ no mười phần.
Sau các cuộc lễ này, vua cùng các đại thần đưa các hoàng tử đến cung Diên Thọ dâng biểu chúc mừng Hoàng Thái hậu (mẹ của vua). Việc du xuân được các vua Nguyễn chấp hành trong khoảng ngày mùng 5 âm lịch. Thường thì vua lên kiệu cho bầy tớ cáng đi, các quan văn, võ cùng binh quân nhân theo sau hộ giá. Đoàn đi một vòng vòng vo đế đô và một vài nơi vua thích để vừa du xuân lại vừa xem dân tình ăn tết ra sao.
Ông Phan Thanh Hải chắc chắn: “Một số lễ hội (trong lễ hội có cỗ bàn, ẩm thực) cung đình đặc sắc của Huế đã được đầu cơ tìm hiểu, phục dựng, phục vụ trực tiếp cho các Festival quốc tế và xa hơn là nhằm vào chỉ tiêu góp phần xây dựng Huế biến thành Đô thị Festival đặc biệt của Việt Nam. Không ít các lễ hội nói trên đều có khả năng phục hồi, phát huy trị giá và thực tiễn đã chứng minh vấn đề đó”.
Tết của vua chúa ngày xưa
Qua những tư liệu lịch sử, Tết của vua chúa xưa thường không nặng về trải nghiệm vật chất mà luôn hướng đến lễ nghi và truyền thống văn hóa của dân tộc.
|
Bình luận